Mười hai Sứ đồ Mười_hai_sứ_đồ

Trong các sách Phúc âm, mười hai vị này vẫn thường được gọi là sứ đồ, khi ấy nhiệm vụ chính của họ, giống các môn đệ khác, là sống kề cận bên Chúa Giê-su và nhận lãnh sự dạy dỗ của Ngài. Chỉ từ khi họ được Chúa Giê-su chọn và sai đi ra để rao giảng Phúc âm và trừ ma quỷ(Mark 3. 14-15; 6. 30), họ mới được gọi là sứ đồ; song cũng chỉ giới hạn trong thời gian được sai phái. Sau ngày Lễ Ngũ Tuần, mười hai vị thường xuyên được gọi là sứ đồ với sự tôn trọng đặc biệt.

Nhiệm vụ của các tông đồ là thuyết giảng, dạy dỗ và quản trị. Lời giảng của họ lập nền trên mối quan hệ thân cận mà họ từng có với Chúa Giê-su, sự dạy dỗ mà họ nhận lãnh từ Ngài và lời chứng của họ về sự phục sinh của Chúa Giê-su (Công vụ 1. 22). Họ gánh vác trách nhiệm chăm sóc đời sống và phúc lợi của cộng đồng Cơ Đốc giáo còn non trẻ. Khi Hội Thánh phát triển đến nhiều vùng khác, các tông đồ phải dành nhiều thì giờ hơn để chăm sóc các nhóm tín hữu sống rải rác nhiều nơi (Công vụ 8. 14, 9. 32).

Phúc âm Nhất lãm

Theo Phúc âm Nhất lãm (Phúc âm Đồng quan): Phúc âm Mátthêu (10. 1-4), Phúc âm Máccô (3. 13-19) và Phúc âm Luca (6. 12-16), Mười hai sứ đồ được Chúa Giê-su chọn gần như ngay từ khi ngài bắt đầu chức vụ, Chúa Giê-su "gọi họ là sứ đồ", gồm có:

  1. Simon được Chúa Giê-su gọi là Peter – trong tiếng Việt là Phê-rô hoặc Phi-e-rơ – (Hi văn petros, petra; Aram kēf; Anh văn rock) nghĩa là đá, còn được gọi là Simon con Jonah hay Simon con Jochana (tiếng Aram), Phao-lô gọi ông là Cephas (tiếng Aram), cũng gọi là Simon Peter. Ông là một ngư phủ đến từ thành Bethsaida xứ Galilee (Phúc âm Gioan 1. 44; 12. 21). Ông được trao quyền cai quản Hội Thánh.
  2. Anrê, anh của Phêrô, ngư phủ thành Bethsaida và là một môn đệ của Gioan Baotixita hoặc Giăng Báp-tít (John the Baptist).
  3. James "Lớn" (trong tiếng Việt là Giacôbê hoặc Gia-cơ).
  4. John (Gioan hay Giăng), con của Zebedee, được Chúa Giê-su gọi là Boanerges (theo tiếng Aram nghĩa là "Con trai của sấm sét" – Mc 3. 17).
  5. Philip người thành Bethsaida xứ Galilee (Gioan1. 44, 12. 21).
  6. Bartholomew (Tiếng Việt là Batôlômêô), "con trai của Talemai", thường được gọi là Nathanael.
  7. Thomas, cũng gọi là Thomas Didymus, tiếng Aram T’oma’, "sinh đôi", tiếng Hy Lạp Didymous, cũng có nghĩa là "sinh đôi"
  8. James "Nhỏ", phiên âm tiếng Việt là "Giacôbê", con ông Anphê
  9. Matthew (Mát-thêu hoặc Ma-thi-ơ), người thu thuế, đôi khi được cho là Levi, con trai của Alphaeus.
  10. Simon người Canaan, được gọi là "người Nhiệt Thành" (Zealot).
  11. Judas Iscariot "kẻ bội phản"; được cho là người muốn phục hồi quốc gia Do Thái; sau khi Judas Iscariot tự vẫn, Matthias được chọn vào chỗ của Judas Iscariot trong các tông đồ.
  12. Thaddaeus, trong Phúc âm Luca gọi là Judas, em của Gia cô bê con ông anphê

Phúc âm John

Phúc Âm Gioan (Giăng hay Gioan), không giống ba sách phúc âm nhất lãm, không đưa ra danh sách các tông đồ, cũng không liệt kê số lượng; dù vậy, tên của chín tông đồ được tìm thấy trong sách Phúc âm thứ tư này:

  • Andrew,
  • Judas Iscariot,
  • Peter,
  • Thomas (còn gọi là Judas),
  • Nathanael,
  • Philip,
  • Các con trai của Zebedee
    • James
    • John, và
  • Judas, không phải Iscariot.

Mười hai tông đồ cũng được phong là mười hai vị thánh:An-rê, Phi-líp-phê, Ba-tô-lô-mê-ô, Mát-thêu, Simon, Gia-cô-bê tiền, Gia-cô-bê hậu, Gio-an, Giu-đa Ta-đê-ô, Tô-ma, Phê-rô, Mát-thi-a